Đồi Gió Hú, câu chuyện cổ điển về tình yêu ngang trái và tham vọng chiếm hữu, cuốn tiểu thuyết dữ dội và bí ẩn về Catherine Earnshaw, cô con gái nổi loạn của gia đình Earnshaw, với gã đàn ông thô ráp và điên rồ mà cha cô mang về nhà rồi đặt tên là Heathcliff, được trình diễn trên cái nền đồng truông, quả đồi nước Anh cô quạnh và đơn sơ không kém gì chính tình yêu của họ. Từ nhỏ đến lớn, sự gắng bó của họ ngày càng trở nên ám ảnh. Gia đình, địa vị xã hội, và cả số phận rắp tân chống lại họ, bản tính dữ dội và ghen tuông tột độ cũng huỷ diệt họ, vậy nên toàn bộ thời gian hai con người yêu nhau đó đã sống trong thù hận và tuyệt vọng, mà cái chết chỉ có ý nghĩa khởi đầu. Một khởi đầu mới để hai linh hồn mãnh liệt đó dược tự do tái ngộ, Khi những cơn gió hoang vắng và điên cuồng tràng về quanh các lâu đài trong Đồi gió hú… Và những truyen.info.vn tìm hiểu nhé
Đôi nét về tác giả “đồi gió hú”
Tác giả “đồi gió hú” là Emily Bronte – bà được biết đến là 1 nhà thơ, 1 tiểu thuyết gia nổi tiếng người Anh.
Emily Bronte được biết đến trong 1 gia đình có 6 anh chị em, cha là 1 mục sư nghèo, tuy nhiên có sự rèn dũa vô cùng nghiêm khắc với những người con. Mẹ là người Anh. Chị giá của bà cũng là một văn sĩ nổi tiếng.
Tuy nhiên ở thời điểm mà bà sáng tác, cái nhìn về tác giả của phụ nữ còn nhiều hạn chế. Vì thế, bà đã lấy bút danh nam giới để có thể thoả sức sáng tác.
Cuốn tiểu thuyết duy nhất của Emily Brontr, là cuốn sách đã tới tay công chúng với nhiều lời bình trái ngược vào năm 1847, một năm trước khi nữ tác giả qua đời ở tuổi ba mươi. Thông qua mối tình giữa Cathy và Heathcliff, với bối cảnh là đồng quê Yorkshire hoang vu trống trải, Đồi gió hú đã tạo nên cả một thế giới riêng với xu hướng bỏ qua lề thói, vương tới thi ca cũng như tới những chiều sâu tăm tối của lòng người, giúp tác phẩm trở thành một trong những tiểu thuyết vĩ đại nhất, bi thương nhất mà con người từng viết ra về nỗi đam mê cháy bỏng.
Mời bạn đón đọc.
Văn chương là một môn nghệ thuật đặc sắc, đem đến cho cuộc sống của con
người nhiều điều mới mẻ, thú vị, mở ra cho người đọc những chân trời tri thức mới.
Nó còn là nơi giao lưu của nhiều nền văn hóa lớn, giữa phương Đông và phương
Tây. Vì vậy, ngày nay, các dịch giả không ngừng dịch thuật nhiều tác phẩm nước
ngoài sang tiếng Việt và ngược lại, nhằm giúp cho độc giả có thêm nhiều sự lựa
chọn cho riêng mình. Với tôi, một tác phẩm văn chương được đánh giá cao khi nó
dựng lên một cốt truyện thật hấp dẫn, có hệ thống tuyến nhân vật đa tính cách, ngôn
ngữ sinh động, gọt dũa… và nhất là không thể thiếu yếu tố không gian nghệ thuật.
Đó là nét nghệ thuật tiêu biểu góp phần không nhỏ làm nên thành công cho tác
phẩm.
Là một người yêu thích văn chương, tôi đã đọc khá nhiều tác phẩm hay cả
trong và ngoài nước. Tất cả đều để lại nhiều ấn tượng đẹp đẽ trong tôi. Và tôi đã
nhận ra rằng dù ở tác phẩm nào cũng được tác giả đặt trong một không gian cụ thể,
để dựng lên một bức tranh xã hội đương thời, phác họa một khung cảnh thiên nhiên
hay tái hiện lại sự kiện một cách sinh động. Thông qua đó, tác giả thể hiện nội dung
tư tưởng, chủ đề cũng như tính cách của nhân vật. Tuy nhiên không phải tác phẩm
nào, yếu tố không gian cũng được khắc họa đậm nét. Riêng với tiểu thuyết “Đồi Gió
Hú” của Emily Bronte, một quyển tiểu thuyết kinh điển của nền văn học Anh, thì
đã cuốn hút tôi ngay từ những trang đầu, vì chưa một tác phẩm nào lại được tác giả
miêu tả nhiều không gian dày đặc đến như thế. Nét độc đáo hơn cả là qua mỗi
không gian đó đều cho tôi những cảm nhận riêng: có khi rất hồi hộp, lo lắng cho các
nhân vật; có khi lại được hòa chung cùng nhân vật những cảm xúc vui, buồn lẫn
lộn; có khi lại được chiêm ngưỡng những bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp… và đặc
biệt “Đồi Gió Hú”, một nơi quanh năm có gió thổi rền rĩ luôn tạo ra sự huyền bí làm
cho tôi thật sự tò mò. Tác phẩm đã lôi cuốn tôi bởi một câu chuyện tình buồn, nhiều
ngang trái của hai nhân vật chính và hơn nữa chính là thi pháp về không gian nghệ
thuật mà nhà văn đã vận dụng. Do đó, tôi quyết định chọn đề tài “Không gian nghệ
thuật trong Đồi Gió Hú của Emily Bronte” để đi sâu vào việc nghiên cứu, tìm hiểu
kĩ hơn về đề tài mà mình yêu thích.
GVHD: Th.s Trương Thị Kim Phượng 6
Luận văn tốt nghiệp
SVTH: Châu Đặng Diễm Thúy
2/ Lịch sử vấn đề:
Mỗi một tác phẩm ra đời đều nằm trong một không gian nhất định. Đó không
chỉ là nơi mà diễn biến hành động của nhân vật xảy ra ngay tại một thời điểm mà
thông qua đó nó còn nhằm gợi lên cho độc giả biết được dụng ý mà tác giả muốn đề
cập đến. Hơn thế nữa, “Không gian nghệ thuật” trong tác phẩm còn góp phần làm
tăng hoặc giảm cảm xúc của người đọc. Vì vậy, từ lâu, thuật ngữ “Không gian nghệ
thuật” không còn lạ lẫm gì với người nghiên cứu văn học cũng như với độc giả. Để
làm rõ vấn đề này, người viết xin điểm qua một số nhận định về Không gian nghệ
thuật” trong một số tác phẩm đã được các nhà lí luận nghiên cứu phê bình đề cập
đến.
Trước tiên, trong công trình nghiên cứu “Thi pháp không gian nghệ thuật”
của Trần Đình Sử, ông có nêu lên nhiều nhận xét về “Không gian nghệ thuật” trong
một số tác phẩm văn học Việt Nam nổi tiếng. Đó là không gian trong “Tấm Cám”,
“Chinh Phụ Ngâm”, “Khi con tu hú”,…
* Ở truyện “Tấm Cám”, Trần Đình Sử viết: “xét riêng không gian truyện này
ta thấy cốt truyện có tình tiết lễ hội (trẩy hội, thử giày) nhưng không có không gian
quãng trường của lễ hội. Truyện có tình tiết lễ hội cung vua nhưng không có không
gian cung đình. Cái nhất quán từ đầu đến cuối là không gian làng quê: ao làng,
đồng nhà, đồng xa, giếng nước, hồ, vườn, cây thị bên đường, cây cau, bờ rào, phố
chợ, quán nước, hố đất. Điều đáng chú ý nữa là nhân vật không ai không có không
gian riêng của mình như trong tiểu thuyết. Điều này cũng thể hiện quan niệm con
người chức năng trừu tượng của truyện cổ tích” [14; 47]
* Đến bài thơ “Khi con tu hú” của Tố Hữu, tác giả có nhận xét: “Sáu câu đầu
là không gian thiên nhiên tự do trong tâm tưởng của nhà thơ “Hè dậy bên lòng”.
Từ một tiếng chim tu hú gọi hè, gọi mùa màng (lúa chiêm đàng chín, trái cây ngọt
dần, bắp rây vàng hạt dây sân nắng đào) gọi tiếng ve, gọi nắng, và nhất là gợi một
khung trời tự do; thức tỉnh niềm khao khát tự do:
“Trời xanh càng rộng, càng cao.
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không”.
Không gian tù ngục hiện ra qua cái phòng xà lim, qua cảm giác ngột ngạt, u
uất, đòi hỏi một sự tung phá, khao khát hành động đến đau đớn:
GVHD: Th.s Trương Thị Kim Phượng 7
Luận văn tốt nghiệp
SVTH: Châu Đặng Diễm Thúy
“Ngột làm sao, chết mất thôi
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu”. [14, 61]
Qua ví dụ trên, ta nhận thấy rõ không gian nghệ thuật là một biểu hiện chủ
quan, ước lệ, nó gắn liền với cách cảm thụ và quan niệm về thế giới của người nghệ
sĩ. Trong mỗi tác phẩm, không gian nghệ thuật luôn được thể hiện qua cái nhìn, qua
phân giới các không gian, các giá trị bên trong, bên ngoài, con người, vũ trụ, sự
giam hãm và cõi đời tự do, mà sự hoạt động, cảm xúc của con người bao giờ cũng
hướng về một không gian tự do, hài hòa, vĩnh cửu cho nhân cách.
Một công trình nghiên cứu khác là quyển “Sống mòn – tác phẩm và dư luận”,
tác giả Đỗ Đức Hiểu có bài “Hai không gian sống trong Sống mòn”. Trong đó, tác
giả đã phân tích một cách chi tiết không gian nghệ thuật trong “Sống mòn”. Đỗ Đức
Hiểu viết: “Cái không gian sống của Thứ là một không gian o bế; cuộc hành trình
của Thứ trong hai mươi chương truyện là con đường từ quê lên Hà Nội, rồi quay về
quê từ những chuyến tàu hỏa, từ nơi nghèo đói, mỗi ngày vài lưng cơm, ăn củ
chuối, tối tăm như hủ nút, thù hằn, ghen tức, nhỏ nhen, đến một vùng ngoại ô Hà
Nội xơ xác, nơi chứa đựng rác rưởi của đô thị, cũng tối mò, cũng nhỏ nhen tính
toán chi li. Từ cái không gian hiện thực ấy, tâm hồn Thứ luôn đối phó với những
dằn vặt, day dứt, những câu hỏi về cuộc sống. Do đó, sức lay động của Sống mòn
chính là sự xung đột giữa không gian xã hội (“xó nhà quê” và “ngoại ô Hà Nội
nhem nhuốc” ). Và không gian tinh thần, mơ ước, không gian hồi tưởng, không gian
khát vọng”. [2;291]. Nhìn chung trong bài này, tác giả đã nêu ra hai không gian
hiện thực và không gian tâm tưởng của cuộc đời nhân vật Thứ.
Bên cạnh đó, quyển “Vũ Trọng Phụng – về tác gia và tác phẩm” cũng có bài
viết “Kết cấu hoành tráng – một đóng góp lớn của Vũ Trọng Phụng trong lĩnh vực
tiểu thuyết” của Trần Đăng Thao. Bài viết này đã phân tích kỹ cái không gian nghệ
thuật – không gian bao la rộng lớn trong tiểu thuyết “Giông tố”, “ Số đỏ”. “Giông
tố là bức tranh toàn cảnh về xã hội Việt Nam những năm 30, ở đó có nông thôn
ngột ngạt với những tập tục lỗi thời và hủ lậu, có thành thị kiêu sa và nghèo khổ, có
miền núi, có vùng biển, có trung du, vùng mỏ, trải ra trên một không gian dài như
đất nước.”, “Số đỏ về quy mô tuy có nhỏ hơn, nhưng vẫn ôm trọn mảng thành thị.
Không gian trong Số đỏ là toàn bộ thành thị với tất cả các ngõ ngách, xó xỉnh từ
nhà ra đường, đến sân banh, sở cẩm, vào tận nhà săm, chùa chiền, khách sạn công
GVHD: Th.s Trương Thị Kim Phượng 8
Luận văn tốt nghiệp
SVTH: Châu Đặng Diễm Thúy
viên…Cả thế giới bừng bừng, sống động, như nó đã từng có, từng diễn ra ở thập kỉ
30.”[15, 509]
Ngoài ra, trong bài “Tìm hiểu ý nghĩa đích thực của truyện Thuốc”, thạc sĩ
Hồ Ngọc Mân có nhận xét: “Không gian nghệ thuật là trên nghĩa địa. Nhà văn đã
để cho hai bà mẹ (mẹ Hạ Du và mẹ cu Thuyên) gặp nhau trên nghĩa địa. Hai bà mẹ
thuộc lớp tuổi gần đất xa trời, ngấp nghé miệng lỗ lại gặp nhau trên nghĩa địa,
mảnh đất chôn xác người. Yếu tố không gian được nhà văn tạo dựng theo dụng ý
của mình chính là không gian nghệ thuật. Không gian trên nghĩa địa đã góp phần
khắc đậm chủ đề của tác phẩm. Không gian nghệ thuật làm tôn thêm sự bi thảm, bế
tắc của thực trạng xã hội Trung Quốc”. [9; 53]
Nhìn chung vấn đề “Không gian nghệ thuật” trong nhiều tác phẩm văn học
nổi tiếng ở Việt Nam đã được nhiều giới phê bình, nghiên cứu nhận xét, đánh giá
khá hoàn chỉnh. Riêng với tiểu thuyết “Đồi Gió Hú” của Emily Bronte thì đề tài
“Không gian nghệ thuật trong Đồi Gió Hú” cho đến nay theo sự hiểu biết hạn hẹp
của người viết thì hầu như chưa thấy có một công trình nào đi sâu vào nghiên cứu ở
Việt Nam.Vì vậy, người viết rất khó khăn trong việc tìm các cơ sở nhận định có liên
quan đến đề tài này. Người viết chỉ tìm được một vài nhận xét xoay quanh các vấn
đề khác của tác phẩm. Mong rằng nó sẽ góp phần giúp người viết có những tư liệu
hữu ích để thực hiện đề tài này.
Trong quyển tiểu thuyết “Đồi Gió Hú”, dịch giả Dương Tường có nhận xét:
“Đồi Gió Hú được đẽo tạc trong một xưởng hoang dại bằng những dụng cụ đơn sơ,
từ chất liệu mộc mạc. Nhà điêu khắc thấy một khối đá granit trên một cánh đồng
hoang quạnh quẽ: nhìn kĩ chàng thấy từ tảng đá, có thể tạo một cái đầu như thế
nào, man rợ, đen đúa, hung hãn; một dáng hình được đắp nặn với ít nhất là một yếu
tố của hùng vĩ – sức cường. Chàng làm việc với một cái đục thô sơ và không theo
mẫu ngoài thị ảnh và những suy tư của chàng. Với thời gian và lao động, khối đá
mang hình người. Và kia nó sừng sững đứng, đồ sộ, đen đúa và cau có, nửa tượng,
nửa núi đá: là tượng thì khủng khiếp giống quỷ; là núi đá thì hầu như đẹp, vì có
màu xám dịu và mặc lớp rêu của đồng hoang và đám thạch nam với những chùm
hoa hình chuông và hương thơm ngào ngạt của nó, vẫn thủy chung mọc sát dưới
chân gã khổng lồ ấy” [18; 6]. Qua đoạn văn này, tác giã Dương Tường đã ít nhiều
đề cập đến không gian đặc biệt của “Đồi Gió Hú”, gắn kết với những hình ảnh của
GVHD: Th.s Trương Thị Kim Phượng 9
cánh đồng, đá tảng, đám thạch nam và chùm hoa chuông… những chi tiết đặc tả
không gian hoang dại.
Ngoài ra, người viết cũng tìm được một nhận xét về tác phẩm trên mạng:
“Đồi Gió Hú, câu chuyện cổ điển về tình yêu ngang trái và tham vọng chiếm hữu,
cuốn tiểu thuyết dữ dội và bí ẩn về Catherine Earnshaw, cô con gái nổi loạn của
gia đình Earnshaw với gã đàn ông thô ráp và điên rồ mà cha cô mang về và đặt tên
là Heathcliff được trình diễn trên cái đồng truông, quả đồi nước Anh cô quạnh và
đơn sơ không khác gì chính tình yêu của họ. Từ nhỏ đến lớn sự gắn bó của họ ngày
càng trở nên ám ảnh. Gia đình, địa vị xã hội và cả số phận rắp tâm chống lại họ,
bản tính dữ dội và ghen tuông tột độ cũng hủy diệt họ, vậy nên toàn bộ thời gian hai
con người yêu nhau đó đã sống trong thù hận và tuyệt vọng, mà cái chết chỉ có ý
nghĩa khởi đầu. Một khởi đầu mới để hai linh hồn mãnh liệt được tự do tái ngộ, khi
những cơn gió hoang vắng và điên cuồng tràn về các lâu đài trong Đồi Gió Hú”.
Đặc biệt trong bài viết này có đoạn nhấn mạnh về bối cảnh của câu chuyện: thông
qua mối tình giữa Cathy và Heathcliff, với bối cảnh là đồng quê Yorkshire hoang
vu, trống trãi. Đồi Gió Hú đã tạo nên cả thế giới riêng và xu hướng bỏ qua lề thói,
vươn tới thi ca cũng như chiều sâu tăm tối của lòng người”.
Cuối cùng, trên trang web www.Maxreading.com, Nguyễn Tường Thiết cũng
nhận định về tiểu thuyết “Đồi Gió Hú”: “Đỉnh Gió Hú không phải là một cuốn
sách để chúng ta đàm luận, nó là một cuốn sách để chúng ta đọc…Nó chứa đựng
một thứ mà rất ít tiểu thuyết gia có thể cho chúng ta, ấy là năng lực. Tôi chưa thấy
một cuốn tiểu thuyết nào mà nỗi buồn rầu thống khổ, niềm vui sướng điên cuồng,
tính độc ác vô hình, sự ám ảnh của ái tình được diễn tả một cách kỳ diệu như trong
Đỉnh Gió Hú”. Mặc dầu nhận định này không liên quan trực tiếp đến đề tài luận
văn nhưng trong quá trình phân tích tác phẩm, người viết cho rằng nó cũng rất có
ích và góp phần giúp người viết định hướng cho các nhận xét của mình.
Tóm lại, vấn đề về không gian nghệ thuật trong tác phẩm văn học là khá
quen thuộc đối với giới phê bình văn học, song do số lượng tác phẩm văn học trên
thế giới quá nhiều nên việc các nhà nghiên cứu đi sâu vào mọi tác phẩm vẫn chưa
thể xảy ra. Tiểu thuyết “Đồi Gió Hú” là một tác phẩm dịch nên còn khá xa lạ đối
với độc giả công chúng Việt Nam. Vì vậy để hoàn thành tốt đề tài này, người viết
phải vượt khá nhiều khó khăn nhất định trong việc tìm tòi, nghiên cứu để có cái
GVHD: Th.s Trương Thị Kim Phượng 10
nhìn đúng đắn và khách quan đối với vấn đề. Ngoài ra, cách thức tiếp cận của các
nhà nghiên cứu về vấn đề không gian nghệ thuật trong các tác phẩm văn học Việt
Nam nổi tiếng mà người viết đã trích dẫn ở trên sẽ là nguồn tư liệu rất quý giúp cho
người viết có thể hình dung ra đường đi, cách thức khai triển đề tài cho chính mình.
3/ Mục đích nghiên cứu:
Mục đích nghiên cứu đề tài là làm rõ thi pháp về “Không gian nghệ thuật”
trong một tác phẩm văn học cụ thể. Đó là tác phẩm “Đồi Gió Hú” của Emily
Bronte.
Trong quá trình nghiên cứu, những tài liệu có liên quan đến đề tài sẽ giúp
cho người viết có cái nhìn ban đầu về các vấn đề lí luận và thực tiễn. Qua quá trình
tìm hiểu, người viết sẽ rút kết một cách khái quát vấn đề lí luận về “Không gian
nghệ thuật” trong tác phẩm văn học.
Những vấn đề về lí luận và thực tiễn về “Không gian nghệ thuật” sẽ tạo điều
kiện thuận lợi cho người viết có cái nhìn khách quan khi tiếp xúc với các vấn đề có
liên quan về sau.
4/ Phạm vi nghiên cứu:
Trong luận văn này, phạm vi nghiên cứu của người viết được xác định rõ là
“Không gian nghệ thuật” trong tác phẩm. Vì thế, người viết sẽ đi sâu vào tìm hiểu
lí luận chung về “Không gian nghệ thuật” trong tác phẩm văn chương nói chung.
Sau đó, người viết sẽ áp dụng lí luận về “Không gian nghệ thuật” vào việc
phân tích tác phẩm “Đồi Gió Hú” trên ba phương diện: không gian bối cảnh, không
gian sự kiện và không gian tâm lí.
Người viết làm đề tài luận văn dựa trên tác phẩm “Đồi Gió Hú” của dịch
giả Dương Tường, NXB Công ty văn hóa & Truyền Thông Nhã Nam, xuất bản năm
2006. Ngoài ra, còn có các công trình nghiên cứu, các giáo trình, các tạp chí văn
học…của các tác giả Trần Đình Sử, Nguyễn Hoa Bằng, Nguyễn Thị Dư Khánh… và
một số luận văn của các anh chị sinh viên khóa trước.
5/ Phương pháp nghiên cứu:
– Đầu tiên, người viết phải đọc kĩ tiểu thuyết “Đồi Gió Hú”, bản dịch tiếng
Việt để nắm vững nội dung, cốt truyện, tìm hiểu kĩ đề tài, chủ đề cũng như hệ thống
nhân vật. Sau đó người viết mới có thể đi vào đề tài luận văn của mình là “Không
GVHD: Th.s Trương Thị Kim Phượng 11
Luận văn tốt nghiệp
SVTH: Châu Đặng Diễm Thúy
gian nghệ thuật trong Đồi Gió Hú” để chia các loại không gian cho phù hợp. Sau
đó, người viết phân tích kĩ các chi tiết có liên quan đến “Không gian nghệ thuật” để
làm bật nổi nội dung của cốt truyện cũng như tính cách của các nhân vật, góp phần
thể hiện đề tài, chủ đề của tác phẩm.
– Trong quá trình làm việc, người viết vận dụng kiến thức đã học kết hợp với
việc tìm hiểu, nghiên cứu tài liệu có liên quan. Sau đó, người viết ghi chép lại dùng
làm tư liệu dẫn chứng.
– Trong bài viết, người viết phải vận dụng các thao tác phân tích, so sánh đối chiếu, chứng minh… để triển khai làm rõ đề tài.
– Tiếp theo, người viết tổng hợp tài liệu lại để viết.
GVHD: Th.s Trương Thị Kim Phượng 12
Luận văn tốt nghiệp
SVTH: Châu Đặng Diễm Thúy
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG
1.1 Bối cảnh lịch sử:
1.1.1 Sự phát triển của Chủ nghĩa tư bản Anh nửa đầu thế kỉ XIX:
Anh là nước chiếm địa vị hàng đầu trong nền kinh tế thế giới. Từ năm 1830,
tốc độ phát triển công nghiệp của Anh ngày càng tăng, việc sử dụng máy móc vào
sản xuất ngày càng nhiều. Ngành luyện kim và cơ khí phát triển rất nhanh nhằm đáp
ứng nhu cầu trang bị kĩ thuật toàn bộ nền công nghiệp. Đồng thời, đuờng sắt tăng
lên nhanh chóng: năm 1830, đường xe lửa đầu tiên nối liền Mantretxtơ và Livơpun
được khánh thành và đến năm 1850, nước Anh đã có tới 10.000 km đường sắt. Điều
đó thúc đẩy sự phát triển của thị trường trong nước và “tăng cường mối liên hệ kinh
tế giữa các trung tâm công nghiệp”. Tuy nhiên, ngay trong thời kì phát triển, nền
công thương nghiệp nước Anh không tránh khỏi khủng hoảng. Cuộc khủng hoảng
kinh tế lớn đầu tiên nổ ra vào năm 1825 và tiếp theo đó, chu kì 10 năm, những cuộc
khủng hoảng khác đã xảy ra vào năm 1837 và 1847, gây ảnh hưởng tai hại tới tình
hình kinh tế chung của các nước Châu Âu.
1.1.2 Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân Anh:
Sự phát triển của Chủ nghĩa tư bản đã nâng cao rõ rệt mức sản xuất trên thế
giới. Các trung tâm công thương nghiệp sầm uất mọc lên với những bến cảng tấp
nập, các thành phố đồ sộ, các đường giao thông chằng chịt và các phương tiện thông
tin liên lạc hiện đại. Song cùng với sự phát triển đó, cảnh tương phản giữa tư sản và
công nhân ngày càng bộc lộ rõ rệt. Đằng sau bộ mặt lộng lẫy của chủ nghĩa tư bản,
toàn bộ sự thực về đời sống công nhân đã được Ăngghen vạch ra một cách chân
thực và sinh động trong tác phẩm nổi tiếng “Tình cảnh của giai cấp lao động ở
Anh”. Sự bóc lột tàn khốc của CNTB làm cho hố ngăn cách giữa giai cấp tư sản và
giai cấp cộng nhân ngày càng sâu sắc và mâu thuẫn xã hội trở nên gay gắt. Cuộc
đấu tranh giai cấp giữa tư sản và vô sản là điều không thể tránh khỏi. Nhưng trong
Emily Bronte mất mẹ từ khi mới lên 3, sau đó lại mất đi người chị. Dường như cuộc sống của nữ nhà văn Emily Bronte không hề dễ dàng và có lẽ cũng chính vì điều này mà những sáng tác của bà có phần khép kín, trầm lặng và mang những khổ đau.
“Đồi gió hú” – nguồn cảm hứng nơi tác giả sống
“Đồi gió hú” được xuất bản lần đầu vào năm 1947. Tác phẩm đã nhận được rất nhiều sự quan tâm của độc giả ngay sau khi mới xuất bản.
“Đồi gió hú” là tác phẩm kinh điển, được bình chọn là tiểu thuyết hay nhất mọi thời đại, đã được chuyển thể thành nhạc kịch, điện ảnh, opera,…
Truyện Đồi gió hú kể về câu chuyện tình ở làng quê của nước Anh, ở thế kỷ 19. Tác phẩm kể về mối tình đầu sâu sắc, chuyện tình với đầy đủ cung bậc từ mâu thuẫn, giằng xé, cho đến những hận thù. Cảm hứng của tiểu thuyết được lấy bối cảnh từ đồng quê Yorkshire ở chính nơi mà tác giả sinh sống. Đây là vùng đất gợi cho người ta cảm giác khung cảnh thiên nhiên tuyệt vời, thanh bình, mê đắm lòng người. Không những thế, vùng đất ấy còn là vùng đất của Chúa, bởi cảnh sắc thiên nhiên như chốn thần tiên.
Thế nhưng trong tác phẩm, tác giả đã xây dựng nên 1 đồng quê hoang vu, trống trải và vô cùng hiu quạnh, tạo sự ám ảnh lạ thường về vùng đất ấy.
Có lẽ điều này ảnh hưởng bởi nơi bà sinh sống. Là ngôi làng xung quanh là những tảng đá cô quanh, thấp thoáng xung quanh là các phần mộ được chôn cất xiêu vẹo. Là hình ảnh về bức tranh rùng rợn và hiện thực cuộc sống. Không còn là vẻ đẹp hùng vĩ, khung cảnh trở lên hoang sơ có phần lạnh người. Ngòi bút của tác giả đã làm rõ nên khung cảnh về sự khắc nghiệt, về những khắc nghiệt trong cuộc sống.
Chuyện tình ngang trái
“Đồi gió hú” xoay quanh câu chuyện tình yêu giữa Catherine và Heathcliff. Đó là chuyện tình đã vượt qua những chuẩn mực và những định kiến của cuộc sống. Là tình yêu bất chấp mọi vấn đề, mọi chuẩn mực.
Thế nhưng khoảng cách về sự cách biệt tầng lớp xã hội đã khiến tình yêu của họ ngày càng trở nên ngang trái. Quãng thời gian họ yêu nhau cũng chính là quãng thời gian họ sống với thù hận, và sự đau đớn, khi 2 người yêu nhau, nhìn thấy nhau nhưng lại không thể tiếp tục bên nhau.
Cho đến khi cái chết của cả 2 người xảy ra. Khi ấy, tình yêu bắt đầu 1 lần nữa. Đó là tình yêu của 2 người đã chết, không còn những thù hằn, không còn đớn đau và ngang trái của chốn trần gian nữa.
Tác phẩm sẽ khiến độc giả cảm thấy vô cùng đau đớn, trước những cách hành xử của anh trai nữ chính với nam chính. Nhân vật nam chính Heathcliff có 1 người cha quá cố, và là 1 đứa trẻ mồ côi – lý do khiến cho Heathcliff không được chấp nhận chuyện tình cảm, và cũng chính điều này đã khiến anh ta trở thành quỷ dữ.
Bài viết xem thêm:Đọc truyện Hai số phận – Cuốn sách “kinh điển của kinh điển”
Tình yêu làm nên mọi bi kịch
Tình yêu chính là nguồn cơn của mọi bi kịch trong cuộc sống này. Chuyện tình của 2 nhân vật chính chính là một minh chứng cho chúng ta thấy điều đó. Khi chuyện tình bắt đầu cũng chính là lúc vòng quay về thù hận, âm mưu và những toan tính bắt đầu xảy ra. Đó là những âm mưu của người anh trai, là âm mưu của nhân vật nam chính với người phá hoại cuộc đời anh ta và những điều toan tính, thù hận vô cùng đau đớn.
“Đồi gió hú” là một bức tranh toàn diện về tình yêu, về những điều đa sắc màu trong những đớn đau của cuộc sống tình yêu. Và rồi cuối cùng chúng ta sẽ nhận ra rằng, mặc dù những thù hận vẫn diễn ra, những âm mưu toan tính chưa bao giờ hết nhưng chắc chắn chẳng thể nào ngăn nổi tình yêu của 2 con người
Cuốn tiểu thuyết duy nhất của Emily Brontr, là cuốn sách đã tới tay công chúng với nhiều lời bình trái ngược vào năm 1847, một năm trước khi nữ tác giả qua đời ở tuổi ba mươi. Thông qua mối tình giữa Cathy và Heathcliff, với bối cảnh là đồng quê Yorkshire hoang vu trống trải, Đồi gió hú đã tạo nên cả một thế giới riêng với xu hướng bỏ qua lề thói, vương tới thi ca cũng như tới những chiều sâu tăm tối của lòng người, giúp tác phẩm trở thành một trong những tiểu thuyết vĩ đại nhất, bi thương nhất mà con người từng viết ra về nỗi đam mê cháy bỏng.